Virus gây bệnh sởi (Measles virus)Virus thuộc nhóm Paramyxovirus, nên có cấu trúc và đặc điểm sinh học giống các virus trong nhóm, vì vậy thường có phản ứng chéo giữa các virus trên.
Virus thuộc nhóm Paramyxovirus, nên có cấu trúc và đặc điểm sinh học giống các virus trong nhóm, vì vậy thường có phản ứng chéo giữa các virus trên.
Đặc điểm virus gây bệnh sởi
– Hình thể: virus hình cầu, đường kính 120 – 250 nm, chứa ARN sợi đơn. Vỏ capsid đối xứng xoắn và có vỏ bao ngoài. Trong cấu trúc có thể có 6 protein cấu trúc.
– Cấu trúc vỏ bao ngoài có các hemagglutinin, có vai trò giúp virus bám vào receptor của tế bào cảm thụ, sau đó protein hòa màng và xâm nhập phức hợp tái tổ hợp, thực hiện sự nhân lên của tế bào virus trong tế bào cảm thụ. Sau khi virus được nhân lên, giai đoạn giải phóng của virus được thực hiện theo phương thức nảy chồi. Virus sởi là virus đồng nhất, không có sự biến dị của mọi cấu trúc virus, do vậy sau khi nhiễm virus sởi, kháng thể sởi sẽ duy trì suốt đời. Virus chỉ gây bệnh cho người.
– Virus sởi xâm nhập vào đường mũi họng và đường mắt. Virus nhân lên ở hệ bạch huyết nơi xâm nhập rồi đi vào máu.
– Virus có các loại kháng nguyên: kháng nguyên ngưng kết hồng cầu, kháng nguyên kết hợp bổ thể, kháng nguyên tạo kháng thể trung hòa, ngoài ra virus còn có tính chất dung huyết tố.
Dịch tễ học bệnh sởi
– Sởi lây lan trực tiếp qua đường hô hấp do tiếp xúc với dịch mũi, họng, kết mạc của người nhiễm trùng.
– Đối tượng lây nhiễm: 90 – 98% những người chưa miễn dịch với sởi ở mọi lứa tuổi, nhưng nhiều nhất ở trẻ em mẫu giáo, cấp 1.
Lâm sàng bệnh sởi
Nốt koplix ở niêm mạc má
– Thời gian ủ bệnh từ 10 – 12 ngày.
– Khởi phát với các dấu hiệu viêm long của đường hô hấp trên: chảy nước mũi, ho hắt hơi, đỏ mi mắt… kèm theo sốt nhẹ.
– Sau đó xuất hiện nốt koplix trong niêm mạc má, biến mất nhanh sau 24 giờ.
– Tiếp theo là bệnh sởi điển hình, thể hiện bằng phát ban theo thứ tự từ trên xuống dưới sau 5 – 7 ngày. Rồi từ trên xuống mất dần các nốt ban.
Trong năm đầu của cuộc đời, do tiếp nhận kháng thể sởi qua rau thai nên nếu bị nhiễm virus sởi thì triệu chứng ở trẻ em sẽ không điển hình, ban xuất hiện cũng không điển hình. Bệnh sởi cũng có thể xuất hiện hình ảnh lâm sàng nặng: Viêm não cấp do sởi hoặc viêm sơ chai bán cấp tính do sởi. Các biểu hiện viêm não thường dẫn đến tử vong.
Sởi thể không điển hình: thường xảy ra ở những trẻ em được tiêm vacxin sởi chết hoặc trẻ lớn nhiễm virus sởi. Với sốt cao, đau đầu, cơ ngực và cơ khớp, các nốt ban xuất hiện không điển hình, đôi khi có kèm theo viêm phổi và tràn dịch màng phổi.
Ban sởi trong giai đoạn toàn phát
Tai biến bệnh sởi
– Viêm phổi do sởi: thường có triệu chứng sốt cao và phế quản viêm do bội nhiễm vi khuẩn.
– Viêm não cấp do sởi (acute measle encephalitis): tỷ lệ xảy ra từ 0,05 – 0,1%, tử vong cao.
– Viêm tai giữa do sởi.
– Viêm sơ chai não bán cấp do sởi (SSPE): đây là bệnh mãn tính ở não do sởi. Bệnh có thể xuất hiện sau sởi từ 7 – 10 năm, đây là một biểu hiện lâm sàng điển hình của nhiễm trùng chậm.
Chẩn đoán sởi trong phòng thí nghiệm
Chẩn đoán trực tiếp
Bệnh phẩm là dịch mũi họng hoặc kết mạc, nuôi cấy trong tế bào một lớp của người hoặc khỉ, có thể tìm thấy tiểu thể trong tế bào hoặc tế bào trở thành tế bào khổng lồ (hợp bào). Cũng có thể chẩn đoán trực tiếp bằng phản ứng miễn dịch huỳnh quang trên tế bào nhiễm virus.
Tìm kháng thể
+ Kháng thể kết hợp bổ thể
+ Kháng thể ức chế ngưng kết hồng cầu khỉ.
+ Kháng thể trung hòa.
Ngoài ra có thể làm phản ứng ELISA tìm kháng thể IgM hoặc IgG.
Phòng bệnh
– Có hai loại vacxin sởi: vacxin sởi chết và vacxin sởi sống giảm độc lực. Vacxin sởi sống giảm độc rất có hiệu quả phòng bệnh sởi, do vậy nó được tiêm cho trẻ em 12 tháng tuổi để phòng bệnh sởi ở mọi hình thái lâm sàng.
Vacxin chết không có hiệu lực bảo vệ cao như vacxin sống.
– Ngoài ra, việc xử lý chất thải của bệnh nhân, cách ly bệnh nhân là cần thiết.