Một bạn đọc nhà báo muốn tôi nêu ý kiến cho rằng vì có những loại vắc xin có hiệu quả 50-60% nên một số người dù được tiêm phòng đầy đủ vẫn có thể lây bệnh cho người khác. Tôi muốn có một lời giải thích khác liên quan đến 5 yếu tố liên quan đến loại vắc xin, thời gian sử dụng, biến thể của vi rút và tiền sử lâm sàng.
‘Hiện tượng’ bị nhiễm vi rút sau khi tiêm vắc xin (đủ 2 mũi) không phải là mới. Trong dịch tễ học, chúng được gọi là ‘nhiễm trùng đột phá’.
Nhiễm trùng đột phá là không phổ biến. Theo một nghiên cứu của Anh, cứ 500 người được tiêm chủng đầy đủ sẽ có 1 người bị nhiễm bệnh. Do đó, bạn có thể nói rằng xác suất bạn đã được tiêm chủng nCov là khoảng 0,2%, là thấp. Tại Mỹ, dữ liệu của CDC cho thấy tỷ lệ này là 0,01%.
Nhưng không phải ai cũng có xác suất lây nhiễm đột phá như nhau. Một số người có nguy cơ cao, một số người có nguy cơ thấp. (Vui lòng nói thêm rằng tôi sử dụng từ ‘nguy hiểm’ hoặc đặt vào may rủi ở đây đồng nghĩa với ‘xác suất’). Vậy câu hỏi đặt ra là những yếu tố nào có thể xác định được những người có nguy cơ lây nhiễm bệnh cao hay thấp? Có, có, và tôi tóm tắt những yếu tố đó như sau:
Yếu tố 1: loại vắc xin
Chúng ta đã biết rằng có nhiều loại và công thức vắc xin khác nhau chống lại bệnh covid. Không chỉ vậy, hiệu quả của vắc xin cũng có thể khác nhau. Nếu dựa trên thử nghiệm lâm sàng, hiệu quả vắc xin của Pfizer là 95%, Moderna 94%, AstraZeneca 70-81% (tùy thời điểm tiêm). Còn đối với vắc xin của Trung Quốc, họ báo cáo hiệu quả tương đương với AstraZeneca, nhưng thực tế thì có vẻ thấp hơn nên người ta vẫn cần tiêm thêm vắc xin của phương Tây.
Vui lòng thêm điều đó khi nói đến ‘95% hiệu quả’ KHÔNG Điều này có nghĩa là cứ 100 người tiêm thì sẽ có 95 người không bị nhiễm bệnh. Hoàn toàn không đúng. Có nghĩa là xác suất lây nhiễm ở những người đã được tiêm chủng nhỏ hơn 95% xác suất ở những người chưa được tiêm chủng.
Thước đo cho hiệu quả là xác suất, không phải cá nhân. Vâng, xác suất áp dụng cho một nhóm người, không phải cho một cá nhân. Một nhóm người sẽ có những người bị nhiễm và không bị nhiễm. Cá thể chỉ bị nhiễm hoặc không nhiễm chứ không xác định xác suất lây nhiễm. Điều này có nghĩa là con số hiệu quả của vắc xin chỉ áp dụng cho một dân số hoặc một nhóm người, nó không có ý nghĩa thực tế đối với một cá nhân.
Yếu tố 2: thời gian giữa 2 liều
Theo kết quả của nghiên cứu vắc xin AstraZeneca được báo cáo về Lancet [1], khoảng thời gian mà vắc xin có hiệu quả cao nhất là khoảng 3 tháng. Các chuyên gia giải thích rằng 3 tháng là khoảng thời gian đủ để cơ thể chúng ta ‘làm quen’ với vắc xin trước khi nhận một liều mới. Bạn có thể đọc biểu đồ mà tôi trích dẫn dưới đây để xem khoảng 12 tuần là tối ưu. Khi khoảng cách giữa 2 liều là 12 tuần, hiệu quả vắc xin lên đến 81%, nhưng khi cách nhau 6 tuần, hiệu quả chỉ đạt 55%.
Đó cũng là lý do mà Úc chọn thời gian cách nhau 3 tháng để đạt hiệu quả cao nhất. Nhưng ở những nơi hiếm vắc xin (như Việt Nam chẳng hạn), các cơ quan chức năng có xu hướng rút ngắn thời gian tiêm chủng giữa hai liều.
Yếu tố 3: thời gian có hiệu lực
Không có vắc xin nào hoạt động ‘mãi mãi’, mà chỉ trong một thời gian. Theo nghiên cứu (chưa được đánh giá), hiệu quả của vắc-xin Pfizer dường như giảm sau 6 tháng kể từ khi tiêm liều thứ hai. [2]. Nghiên cứu bên Do Thái [3] cũng đi đến kết luận tương tự.
Yếu tố 4: Biến thể của virus
Nguyên nhân thứ tư là do virus có một biến thể giúp nó thoát khỏi sự kiểm soát của hệ thống miễn dịch. Vật chất di truyền của virus nCov là RNA (khác với người là DNA). RNA có tốc độ đột biến rất, rất nhanh so với DNA. Khi chúng ta có vắc-xin để chống lại chúng, chúng đã biến đổi thành một dạng khác, vì chúng thường vượt xa con người.
Điều này có thể giải thích tại sao loại virus đột biến mới giúp chúng thoát khỏi radar của hệ thống miễn dịch và tự do tấn công con người. Đó là lý do tại sao các nhà khoa học lo ngại khi Ấn Độ phát hiện ra một biến thể mới của virus Vũ Hán, vì nó có thể khiến loại vắc xin hiện có kém hiệu quả hơn.
Yếu tố 5: tuổi tác và sức khỏe
Nguyên nhân thứ năm là tuổi tác, tình trạng sức khỏe và đặc biệt là tiền sử dùng thuốc. So với những người trẻ tuổi, hệ thống miễn dịch ‘già’ (như của tôi và các bạn đồng trang lứa) không phản ứng tốt với các kháng nguyên mới. (Kháng nguyên là các yếu tố bên ngoài khiến hệ thống miễn dịch của chúng ta tạo ra kháng thể để chống lại vi rút.)
Điều này nghe có vẻ như một trò đùa, nhưng sự thật là đã có những nghiên cứu giải thích mối tương quan giữa tuổi tác và phản ứng miễn dịch ở những người được tiêm vắc xin Pfizer. [4]. Do đó, tôi đoán rằng những trường hợp bị đột quỵ trung bình có thể già hơn và khỏe mạnh hơn những trường hợp không bị đột biến.
Tóm lược, Nhìn vào tài liệu, tôi nghĩ lý do khiến trẻ bị nhiễm bệnh mặc dù đã tiêm 2 mũi vắc xin là (a) loại vắc xin; (b) khoảng thời gian giữa 2 liều không đủ để tối ưu hóa hiệu quả của vắc xin; (c) hiệu quả của vắc xin giảm dần theo thời gian; (d) một biến thể của vi rút; và (e) các yếu tố liên quan đến tuổi và bệnh đi kèm.
Dù giải thích thế nào thì chúng ta cũng phải lưu ý rằng đã tiêm phòng đầy đủ 2 mũi thì chúng ta vẫn có nguy cơ lây nhiễm bệnh (mặc dù nguy cơ rất thấp). Cần nhớ rằng vắc xin rất quan trọng, nhưng không phải là ‘viên đạn bạc’ chống lại covid-19 mà các chuyên gia của WHO đã cảnh báo. Các biện pháp y tế công cộng (chẳng hạn như hạn chế tụ tập đông người) vẫn được duy trì trong một thời gian.
___
[1] https://www.thelancet.com/journals/lancet/article/PIIS0140-6736(21)00432-3/fulltext
[2] https://www.medrxiv.org/content/10.1101/2021.07.28.21261159v1
[3] https://www.medrxiv.org/content/10.1101/2021.08.24.21262423v1
[4] https://www.medrxiv.org/content/10.1101/2021.03.03.21251066v1.full