Chuyện kể trong phiên trực

Chuyện kể trong phiên trực

BS. Trần Văn Phúc

Vào thời điểm khủng khiếp nhất trong lịch sử, hàng triệu năm sau khi lớp vỏ trái đất đã đông đặc lại, các nguyên tử Hydro, Oxy, Carbon và Nito kết hợp với nhau để tạo nên bầu khí quyển bao quanh trái đất, sau đó là sự sống kì diệu.

Một trong những hình thức đơn giản nhất của sự sống, đó là loài sinh vật đầu tiên có cấu trúc đơn bào, được gọi với cái tên Amip.

Từ một chủng Amip ban đầu, đã nhanh chóng phát triển thành nhiều loài khác nhau. Một trong số đó là con Amip có tên Entamoeba Histolytica, chúng sinh sống ở những vùng biển nhiệt đới, kiên nhẫn chờ đợi con người hàng triệu năm.

Sau quá trình tiến hóa từ loài vượn, con người bắt đầu sử dụng đôi chân của mình đi lang thang trên mặt đất. Họ vục nước lên uống và mắc phải căn bệnh kì lạ, nhưng không biết nguyên nhân. Những cái chết tức tưởi suốt thời gian dài được gắn với cái tên “bệnh của những kẻ ăn mày”.

Khoảng 2500 năm trước, ông tổ nghề y Hipppcrates, người cùng thời với nhà sử học vĩ đại nhất của nhân loại Herodotos và triết gia Socrates, ông là người đầu tiên không tin vào các thuật bói toán và mê tín dị đoan, đã xem xét nghiêm túc căn bệnh của những kẻ ăn mày.

Hippocrates khẳng định căn bệnh đó chính là áp xe gan.

Trong cuốn sách Aphorisms, Hippocrates đã mô tả áp xe gan có 2 loại. Một loại áp xe mủ màu trắng mà sau này khoa học tìm ra nguyên nhân do vi khuẩn. Loại thứ hai phổ biến hơn nhiều, cũng là nguyên nhân chính gây tử vong, mủ màu giống như chất dịch bẩn thỉu, sau này khoa học chứng minh đó là do con Amip.

Sau cái chết của Hippocrates, vua Alexander Đại đế được sinh ra, ông cai trị cả đất nước Macedonia rộng lớn. Trong cuộc chinh phục lãnh thổ về phía đông, ông đã có thời gian dừng chân ở Ấn Độ, một quốc gia có loài Amip mang tên Entamoeba Histolytica là đặc sản.

Mệt mỏi và bệnh tật, cùng với chứng mất ngủ và thương tích từ cuộc chiến tranh hung ác chống lại người Brahman, nhà vua Alexander Đại Đế đã chết ở tuổi 33. Bệnh cảnh của ông được coi là phù hợp với áp xe gan do Amip.

Trong tất cả các triết gia cổ đại, ngoại trừ Aristote và Ptoleme, không ai có thể ảnh hưởng hơn Galen (130 – 200), một bác sĩ bắt đầu học y thuật từ tuổi 15. Chính Galen là người nghi ngờ có mối quan hệ giữa áp xe gan với căn bệnh kiết lị.

Năm 1776, Mexico xảy ra hàng loạt những dịch bệnh. Bác sĩ Joaquin Pio Eguia Lugo đã quan sát và miêu tả tỉ mỉ nhiều ca bệnh nhân chết vì áp xe gan. Và đây vẫn là căn bệnh bí ẩn mà y học đang còn bó tay.

Đến năm 1886, trong trận chiến Madras lịch sử, một viên sĩ quan trong khi đánh giáp lá cà đã bị đối phương đâm thấu gan làm ộc ra đống mủ. Đây là ca áp xe gan đầu tiên được dẫn lưu mủ ra ngoài một cách đặc biệt, sau đó bệnh khỏi hẳn.

Bác sĩ Ballingall là người trực tiếp điều trị đã ghi chép rất tỉ mỉ về ca bệnh này.

Cũng thời điểm ấy, Hoàng đế Napoleon đang chiến đấu ở vùng nhiệt đới St. Helena và được chẩn đoán bị bệnh áp xe gan. Nhưng sau đó bác sĩ lại xác định là không phải. Và cái chết của Napoleon diễn ra ngay sau đó, nhưng đến nay vẫn còn là một bí ẩn.

Thực tế ở nửa kia quả địa cầu, nơi có các quốc gia nhiệt đới, bệnh áp xe gan diên ra phổ biến nhất nhưng lại rất ít được chú ý tới. Phải đến mãi năm 1828, Annesley khi tìm hiểu về bệnh tật ở Ấn Độ đã giải phẫu 51 tử thi bị chết vì bệnh kiết lị, ông phát hiện có 26 trường hợp áp xe gan. Đây là bằng chứng rất thuyết phục để khẳng định áp xe gan có mối liên quan chặt chẽ với căn bệnh kết lị.

Năm 1836, bác sĩ John Bright của Bệnh viện Guy ở London ghi nhận 8 bệnh nhân vàng da, trong đó có 2 trường hợp tử vong khi mổ tử thi có áp xe gan nhưng không thấy sỏi trong đường mật. Kể từ đây, bác sĩ Bright bắt đầu đặt ra câu hỏi nguyên nhân thực sự của áp xe gan là gì?

Đến năm 1848, Giáo sư Charles Morehead đến Ấn Độ, ông mô tả kĩ càng một ca bệnh áp xe gan, sau đó ông dành hẳn 20 năm nghiên cứu về căn bệnh hiểm ác này, rồi đưa ra khẳng định chấn động giới y khoa, rằng áp xe gan không phải là hiếm và có liên quan chặt chẽ với căn bệnh kiết lị, mủ trong ổ áp xe có màu giống như Chocolate.

TÌM RA THỦ PHẠM
==================

Cùng với các nghiên cứu lâm sàng, thì nguyên nhân gây ra bệnh áp xe gan cũng được nghiên cứu trong những lĩnh vực khoa học hoàn toàn khác và không kém phần kich tính.

Antony Van Leeuwenhoek là người phát hiện ra sinh vật sống đơn bào. Rosel van Rosenhof là người sáng chế ra kính hiển vi vào năm 1775, chính ông mô tả một vật thể cực nhỏ đã liên tục thay đổi hình dạng của nó, đó chính là con Amip.

Năm 1849, Gros là người đầu tiên mô tả chu kì sống kí sinh của Amip trong cơ thể con người. Sau đó, vào năm 1875, nhà bác học người Nga là Fredor Alekshandrevitch Losch đã tìm thấy Amip trong phân của một bệnh nhân bị kiết lị, ông gợi ý đó là nguyên nhân gây ra bệnh.

Đến năm 1887, Robert Koch sau khi nghiên cứu 2 bệnh nhân bị lị phức tạp kèm theo áp xe gan ở Ấn Độ, ông chính thức khẳng định nguyên nhân gây bệnh là do Amip. Ông đã chứng minh Etamoeba Histolytica có cả trong mủ và trong phân.

Tiếp đó, Kartulis cũng khẳng định có mối quan hệ sinh lý giữa chứng kiết lị do Amíp và áp xe gan ở các nước nhiệt đới. Chính ông là người đề xuất giả thuyết rằng Amip đã di chuyển từ đại tràng đến gan để phát triển thành áp xe.

Hàng loạt những công trình nghiên cứu của Leonard Roger vào năm 1902, Sir Philip Manson năm 1914, Ochsner và DeBakey năm 1939, Lamont và Pooler năm 1958, Paul Milroy năm 1960, Wilmot năm 1962 và nhiều người khác đã làm sáng rõ nhiều khía cạnh của áp xe gan amíp.

ĐIỀU TRỊ NHƯ THẾ NÀO?
=======================

Hippocrates đã nhận thức được rõ ràng rằng, áp xe gan trong tương lai chủ yếu là tự khỏi, bác sĩ có nhiệm vụ hỗ trợ để bệnh khỏi nhanh hơn.

Ông cũng tuyên bố áp xe gan là căn bệnh tuyệt vọng cần phải có các biện pháp khắc nghiệt mới chữa khỏi. Đó chính là lí do để suốt thế kỉ XIX đến thế kỉ XX, y học đã phải trải qua những thời kì áp dụng các biện pháp liều lĩnh, nỗ lực không mệt mỏi mới có thể chinh phục được căn bệnh này.

Trong suốt thế kỷ XIX, điều trị áp xe gan chủ yếu là phẫu thuật dãn lưu ổ áp xe, nhiều bệnh nhân được chữa khỏi nhưng tử vong cũng không phải là ít. Nhưng theo như Hippocrates, nếu con người tìm kiếm một cách nghiêm túc có thể khám phá ra tính chất của bệnh và có biện pháp điều trị hiệu quả.

Điều này đã được chứng minh tính đúng đắn, khi nửa cuối thế kỉ XX, nhờ có sự phát triển của các phương tiện chẩn đoán hình ảnh như máy siêu âm, máy chụp cắt lớp vi tính, đã cho phép nhìn thấy những hình ảnh cụ thể hơn của áp xe gan Amíp. Các bác sĩ đã kiên nhẫn và cống hiến, câu chuyện điều trị áp xe gan dù mới bắt đầu trong thời gian ngắn nhưng đã nhanh chóng mang lại nhiều thành tựu.

VÀ CÂU CHUYỆN CỦA TÔI
=======================

Năm 1981, khi tôi đang là cậu bé 8 tuổi, học lớp 3 trường làng. Tôi vẫn nhớ như in buổi sáng hôm đó, tôi bị đau quặn vùng bụng dưới, mót rặn liên tục nhưng đi ngoài chỉ ra nhầy máu mũi. Suốt những ngày sau đó, tôi vẫn bị như vậy, kèm theo bụng chướng căng lên như cái trống, buồn nôn và nôn.

Dân nghèo quê tôi ai cũng biết đó là bệnh kiết lị. Bố đi hái lá mơ thối. Mẹ mua bên hàng xóm quả trứng gà, rồi băm nhỏ lá mơ cho vào hấp để tôi ăn. Đó là món ăn ngon nhất với đứa trẻ đói bụng lâu ngày, nhưng tôi lại không cảm thấy ngon.

Cứ như thế, ngày này qua ngày khác, tôi ăn trứng gà hấp lá mơ thối để chữa bệnh kiết lị, nhưng vẫn không khỏi. Sau đó 1 tháng, thì da mắt tôi vàng như nghệ, bụng đau tức nặng vùng hạ sườn phải, cơ thể nhanh chóng gầy còm và suy kiệt.

Suốt 4 tháng trời chống chọi với bệnh tật, tôi chỉ còn da bọc xương. Nằm trong căn buồng tối chờ chết, nhưng tôi lại bắt đầu nuôi hi vọng một ngày nào đó tôi sẽ được bác sĩ chữa khỏi bệnh.

Ngày tháng cứ trôi qua, cuối cùng tôi cũng nghe thấy tiếng ông y ta hàm thụ bác sĩ, ông hứa nếu bố tôi chịu làm mướn không công đủ 3 tháng, ông sẽ tiêm cho thuốc xít tép vào mông.

Bố bỏ hết công việc nhà, ngày đêm đi làm cho ông y tá hàm thụ bác sĩ. Mỗi đêm mẹ ôm tôi trong căn buồng tối, vỗ về tôi với kế hoạch sẽ có những mũi thuốc xít tép tiêm vào mông. Còn tôi, đã một lần chứng kiến lời hứa của ông không thành hiện thực, nên tôi chỉ biết cầu nguyện điều kì diệu sẽ xảy ra với tôi.

Buổi chiều cuối thu năm ấy, khi mẹ thấy hơi thở của tôi đã yếu dần, mẹ gọi bố vào buồng để nói với tôi những lời cuối cùng. Bố ôm tôi vào lòng và khóc, những giọt nước mắt của người đàn ông bất lực nhỏ ướt đẫm khuôn mặt tôi. Mẹ cũng ôm tôi khóc, mẹ xin lỗi vì không thể làm gì khác được.

Sự nghèo khó của gia đình đã chặn mọi con đường không cho tôi tiếp tục được sống.

Nhưng tôi không muốn chết. Trong căn buồng tối nhìn qua khe cửa hẹp, tôi thấy cây cối trong vườn có những chiếc lá héo úa sắp rơi, thì tự đáy lòng cũng cảm thấy cuộc đời mình sắp kết thúc, đó là điều không bao giờ tôi có thể buông xuôi chấp nhận.

Trước khi từ giã cõi đời, tôi khao khát được nhìn thấy ánh mặt trời, nhìn thấy chúng bạn trong xóm vui cười, nhưng đôi chân của tôi không còn đủ sức đứng lên để bước ra ngoài như những đứa trẻ khác.

Bố lặng lẽ ôm tôi ra ngoài sân. Mẹ gọi thêm mấy đứa trẻ bên hàng xóm, những người mà chắc chắn hôm nay đã lên chức ông bà, họ đang cùng con cháu hàng ngày đọc từng bài viết trên Fanpage này của tôi. Nhìn những đứa bạn cùng trang lứa đùa vui trong niềm đau đớn tận cùng, tôi thèm khát được sống mà thốt lên một câu vô thức: “Bố ơi! Con muốn dậy và đi”.

Ngay buổi tối hôm đó, tôi xác định mình phải chiến đấu với bệnh tật. Và tôi không nghĩ đến cái chết, chỉ nghĩ cố ăn cái gì đó, ngủ một giấc thật ngon chờ trời sáng, để lại được hít thở không khí trong lành, được cố gắng sống tiếp và sống tiếp.

Buổi sáng hôm sau đã thay đổi hẳn mọi thứ. Bố nghỉ việc ở nhà ông y tá hàm thụ bác sĩ. Với tình yêu thương vô bờ của người cha dành cho con trai, bố ra ngoài đồng mót hái bất cứ thứ gì còn sót lại, mang về nấu cho tôi ăn.

Buổi trưa bố vay được một ít khoai mang về luộc. Mẹ bóc từng miếng cho tôi ăn. Trong tận cùng của đói nghèo và bệnh tật, chưa bao giờ tôi cảm nhận được những phút giây hạnh phúc trong cuộc đời mình lại đặc biệt đến vậy, nó như ánh mặt trời tỏa sáng giúp tôi vượt tất cả.

Hai tháng sau đó tôi khỏi bệnh.

Ông y tá gặp tôi ngoài đường đã chặn lại hỏi: Tại sao cậu vẫn còn sống?

Lúc đó tôi không đủ hiểu biết để trả lời câu hỏi của ông y tá hàm thụ bác sĩ. Và hôm nay, khi tôi đã trở thành bác sĩ, thì tôi biết rằng tôi đã mắc bệnh lị Amip sau đó chuyển lên áp xe gan nhưng tự khỏi. Tôi cũng biết là tôi có thể chết vì mũi tiêm thuốc xít tép của ông y tá hàm thụ bác sĩ.

BỆNH NHÂN TRONG TUA TRỰC HÔM NAY
===================================

Lúc 17:30 phút, bác sĩ trực cấp cứu liên hệ với tôi, có một bệnh nhân nam 57 tuổi, đau hạ sườn phải và sốt cao 40 độ ngày thứ 8, chẩn đoán áp xe gan.

Kết quả chụp cắt lớp vi tính có ổ áp xe khoảng 6cm đã hóa mủ hoàn toàn, nhưng nằm ngay dưới vỏ vao gan nguy cơ vỡ vào ổ bụng hoặc vỡ lên khoang màng phổi rất nguy hiểm.

Bệnh nhân có chỉ định chọc hút áp xe cấp cứu.

Trước khi gây tê, tôi siêu âm để đo độ dày thành bụng. Điều này rất quan trọng vì có 2 vị trí thuốc tê phải đảm bảo nhiều nhất để bệnh nhân mất hoàn toàn cảm giác đau khi làm thủ thuật, đó là khu vực dưới da và phúc mạc thành bụng.

Xác định đường chọc, phải đi qua nhu mô gan dày trên 4cm trở lên. Tại sao phải làm thế? Tại vì khi nhu mô gan đủ dày trên 4cm, thì sẽ không có nguy cơ vỡ mủ vào khoang ổ bụng. Thực tế một số bác sĩ đã hiểu sai, là chọn đường vào gần nhất, như vậy sẽ rất nguy hiểm.

Khi chọc phải sử dụng “Kĩ thuật tay tự do – Free Hands Technique”. Tức là tay trái cầm đầu dò siêu âm, tay phải cầm kim chọc, đảm bảo luôn kiểm soát được đầu kim để tránh mạch máu, đi đúng vào trung tâm ổ áp xe, không bị xuyên qua bao gan vào đại tràng hay lên khoang lồng ngực. Một số bác sĩ tôi xem họ chọc, là một người siêu âm nói hướng đi, một bác sĩ khác chọc mò theo lời nói của bác sĩ siêu âm; chọc như thế không chính xác, phải chọc đi chọc lại, có thể gây nguy hiểm.

Kim chọc chúng tôi sử dụng kim Angiocath. Đây là kim nhỏ, nên không gây rò mủ vào ổ bụng, không gây tổn thương mạch máu dẫn đến nhiễm trùng huyết hay viêm hệ thống bạch huyết; là những biến chứng cực kì nguy hiểm đe dọa tính mạng bệnh nhân.

Hạn chế của kim Angiocath là kim nhỏ nên dễ tắc khi hút. Có một biện pháp khắc phục, là dùng dao mổ khoét một lỗ bên cách đầu kim khoảng 10mm, để khi tắc lỗ này thì còn lỗ kia. Thực tế chúng tôi chưa bao giờ bị tắc kim.

Còn một hạn chế khác của kim Angiocath, là khi lưu kim dẫn lưu thì sẽ bị tắc nên không có tác dụng. Bản thân tôi lưu kim hang trăm bệnh nhân đều không hiệu quả, nên sau đó tôi quyết định rút kim ngay. Câu hỏi đặt ra là, khi rút kim có bị rò mủ không? Thực tế hàng ngàn ca, chúng tôi chưa thấy trường hợp nào bị dò. Còn việc ổ áp xe tái lập lại, thì kinh nghiệm tôi thấy rằng nếu đường kính dưới 5cm thường chỉ chọc 1 lần là xong. Trường hợp áp xe lớn, thì có thể phải chọc vài lần, nhưng không sao vì làm đúng kĩ thuật bệnh nhân không hề có cảm giác đau gì cả.

Một số người bơm rửa áp xe, hoặc luồn dây dẫn qua kim để phá vách ổ áp xe. Tôi không làm như vậy, vì có thể gây chảy máu, phá vỡ hàng rào viêm là nguyên nhân gây nhiễm trùng huyết hay viêm bạch huyết cực kì nguy hiểm. Thực tế động tác phá vách cũng chả hút thêm được ít mủ nào, nên không có giá trị và lợi bất cập hại.

Một lưu ý mà tôi muốn nói thêm, là chỉ định chọc hút với ổ áp xe trên 4cm trở lên. Tuy nhiên, ở những vị trí nguy hiểm như gan trái nguy cơ vỡ lên tim, sát bao gan nguy cơ vỡ lên lồng ngực hoặc vào ổ bụng, bệnh nhân sốt không cắt được, thì dù kích thước có nhỏ 2cm vẫn chỉ định chọc.

Khi chọc gan trái, chú ý có đám rối dương nên rễ gây ngừng tim. Bởi vậy mà phải thiết lập được truyền ven thật tốt, chủa bị sẵn sàng cấp cứu ngừng tim.

Với kinh nghiệm chọc áp xe gan từ năm 2003 đến nay, chúng tôi đã chọc hàng ngàn ca bệnh, thủ thuật luôn an toàn, chúng tôi chưa gặp bất kì một biến chứng nào.

Đọc các công trình nghiên cứu của thế giới, chúng tôi vẫn thấy các biến chứng là phổ biến, như tràn mủ vào ổ bụng gây viêm phúc mạc, tràn mủ lên khoang màng tim màng phổi, tràn khí màng phổi, thủng đại tràng, chảy máu, nhiễm trùng huyết, viêm hệ thống bạch huyết.

Ca bệnh của tôi hôm nay, bệnh nhân phản ánh không hề có cảm giác đau tí nào, trừ lúc tôi gây tê thì nhói cái như con kiến đốt. Tôi hút được 60ml mủ Chocolate, trước khi chọc bệnh nhân sốt cao 40 độ nhưng sau đó hai tiếng nhiệt độ còn có 37,7 độ.

Tôi tin chắc trong đêm bệnh nhân ngủ ngon và hết sốt.

Leave a Reply